Xã hội

định nghĩa về dân số không hoạt động

Có nhiều cách phân loại dân số. Nó có thể được thực hiện theo độ tuổi, theo giới tính, theo lãnh thổ hoặc theo cấp học. Tuy nhiên, để hiểu được tình hình hoạt động của nền kinh tế, điều quan trọng là phải phân biệt dân số thành hai nhóm: dân số hoạt động và dân số không hoạt động. Nhóm thứ nhất bao gồm tất cả những người đủ tuổi có thể làm việc, có việc làm và cả những người không có việc làm, tức là những người thất nghiệp. Về phần mình, dân số không hoạt động bao gồm những cá nhân, mặc dù đã đủ tuổi hợp pháp để thực hiện một chức năng, nhưng lại nằm ngoài thị trường lao động, do đó bao gồm: sinh viên (có tầm nhìn về tương lai), người về hưu (đã hoàn thành một việc làm) hoặc khi nghỉ hưu sớm, và những người bị tuyên bố là khuyết tật vĩnh viễn (trước khi lựa chọn tham gia vào lĩnh vực lao động hoặc trong khi, do tai nạn ở cấp độ cá nhân hoặc nghề nghiệp).

Hai khái niệm có thể dẫn đến nhầm lẫn

Nếu chúng ta bắt đầu từ định nghĩa ban đầu, lực lượng lao động bao gồm cả người lao động và người thất nghiệp. Do đó, những người không có việc làm nhưng có thể có một công việc không phải là một phần của dân số không hoạt động. Theo nghĩa này, ý tưởng không hoạt động áp dụng cho những người không thể hoạt động vì có những hoàn cảnh cá nhân ngăn cản nó.

Tầm quan trọng của dữ liệu về dân số không hoạt động

Giả sử rằng ở một quốc gia có dân số hoạt động là 5 triệu người và dân số không hoạt động là 15 triệu người. Trong trường hợp này, sẽ có một vấn đề xã hội nghiêm trọng, vì trong số 20 triệu dân số, chỉ có 5 người làm việc hoặc có thể làm việc.

Ví dụ giả định được đề cập ở trên nhằm minh họa một ý tưởng chung: rằng nền kinh tế của một quốc gia phụ thuộc rất nhiều vào tỷ lệ thích hợp giữa dân số hoạt động và không hoạt động của quốc gia đó. Do đó, có một khái niệm cụ thể để chỉ nhóm xã hội này, PEI hoặc Dân số không hoạt động về kinh tế.

Phần lớn dân số này không thể làm việc vì lý do tuổi tác và do đó, không phải là một phần của bất kỳ khu vực sản xuất nào. Nói một cách ngắn gọn, điều này có nghĩa là những cá nhân thuộc nhóm dân số lao động là những người nộp thuế để trả các khoản trợ cấp cho những người thuộc nhóm dân số không hoạt động (ví dụ, lương hưu). Nói cách khác, quần thể hoạt động có năng suất và quần thể không hoạt động là phụ thuộc.

Tỷ số phụ thuộc là chỉ số nhân khẩu học liên quan đến cả hai thành phần dân số

Về mặt thống kê, tỷ lệ phụ thuộc thiết lập một phép đo cho thấy mối quan hệ giữa khu vực phụ thuộc của xã hội và khu vực sản xuất. Chỉ số này cho biết tổng dân số có bao nhiêu trẻ vị thành niên và người cao tuổi.

Ảnh: Fotolia - petrborn / wallace

$config[zx-auto] not found$config[zx-overlay] not found