kinh tế

định nghĩa về vốn con người

Được hiểu cả là một thuật ngữ kinh tế và xã hội học, khái niệm vốn con người đề cập đến sự giàu có có thể có trong một nhà máy, công ty hoặc tổ chức liên quan đến trình độ của nhân viên làm việc ở đó, tức là trình độ đào tạo. họ có, kinh nghiệm mà mỗi người mang lại, số lượng nhân viên và năng suất thu được từ họ.

Theo nghĩa này, thuật ngữ vốn con người đại diện cho giá trị mà số lượng nhân viên (ở mọi cấp độ) của một tổ chức đảm nhận theo nghiên cứu, kiến ​​thức, kỹ năng và khả năng của họ.

Và nói một cách dễ hiểu và đơn giản hơn, vốn nhân lực là tập hợp các nguồn nhân lực tạo nên một công ty hay một công ty.

Vốn nhân lực của một công ty chắc chắn là một trong những yếu tố quan trọng nhất khi đánh giá lợi nhuận chung của công ty và cũng như dự đoán các khả năng trong tương lai của nó, bởi vì nếu đội ngũ nhân viên có khả năng sản xuất phù hợp và tối đa hóa kết quả của công ty, thì những thách thức có thể được lên kế hoạch trong ngắn hạn và trung hạn vì gần như chắc chắn rằng họ sẽ có thể đối mặt với chúng một cách hiệu quả và hài lòng.

Thuật ngữ vốn con người xuất hiện vào thế kỷ thứ mười tám khi các nhà lý thuyết kinh tế học nổi tiếng, chẳng hạn như Adam Smith, nêu lên nhu cầu không chỉ dừng lại ở các yếu tố kỹ thuật mà còn cả con người khi thiết lập các quy tắc cho hoạt động đúng đắn của một công ty hoặc của một hệ thống kinh tế trong Tổng quan. Theo cách này, vốn con người xuất hiện như một trong những yếu tố quan trọng nhất cần tính đến vì nó có trách nhiệm thực hiện các nhiệm vụ và kỹ năng của từng khu vực kinh tế. Do đó, vốn con người của một công ty càng có giá trị (nghĩa là, vốn được đào tạo hoặc chuẩn bị tốt hơn cho các nhiệm vụ cụ thể trong tay) thì kết quả của tổ chức đó càng tốt.

Chất lượng đào tạo là yếu tố quyết định mức độ hiệu quả của vốn nhân lực

Điều quan trọng cần lưu ý là vốn con người gắn liền với chất lượng giáo dục mà một nhóm dân cư hoặc cộng đồng nhất định có khả năng nhận được. Nhờ được đào tạo, có thể phát triển các kỹ năng, năng lực, kiến ​​thức có khả năng ảnh hưởng tích cực đến tất nhiên sản xuất của nền kinh tế nói chung.

Giờ đây, sự khác biệt sẽ được đánh dấu không chỉ bằng giáo dục chính quy mà còn bằng cách học bất kỳ kiến ​​thức hoặc năng lực nào khác có khả năng tác động thỏa đáng đến năng suất.

Theo nghĩa này, quy trình đào tạo nhân sự do chính công ty thực hiện trở nên phù hợp, tức là công ty đầu tư vào việc đào tạo nhân viên của mình bởi vì sớm hay muộn điều này sẽ được phản ánh trong năng suất và khả năng cạnh tranh cao hơn trên thị trường liên quan. Có nghĩa là, khóa đào tạo này đi trên cùng một con đường, chẳng hạn như mua thêm máy móc.

Những điều đã nói ở trên không phải là một tuyên bố hay thay đổi, nhưng nó đã được chứng minh một cách rõ ràng rằng những quốc gia có dân số đủ tiêu chuẩn nghề nghiệp có chất lượng cuộc sống tốt hơn so với những quốc gia khác trong đó việc tiếp cận một nền giáo dục tốt phức tạp hơn do nhiều hoàn cảnh khác nhau. Hoặc ở đó có sự khác biệt to lớn về quyền tiếp cận mà những người thuộc tầng lớp giàu có phải làm tổn hại đến các tầng lớp thấp hơn, những người có quyền tiếp cận hạn chế hơn nhiều theo mọi nghĩa.

Việc giải thích thuật ngữ này dựa trên các khía cạnh kinh tế và hiệu suất, nhưng tuy nhiên, khái niệm này cũng có thể liên quan đến các khía cạnh và yếu tố xã hội học, chẳng hạn như khả năng tiếp cận các phương tiện đào tạo một nhóm người, khả năng đọc viết, dự đoán tương lai của một số nghề nghiệp hoặc công việc, khả năng thành công tùy theo trình độ học vấn, v.v. Tất cả chúng đều đặc biệt liên quan đến quan điểm rằng không thể thu gọn cá nhân thành những con số thống kê có thể định lượng được về mặt kinh tế hoặc toán học, mà phải được hiểu một cách đặc biệt như một hiện tượng xã hội cụ thể.

$config[zx-auto] not found$config[zx-overlay] not found