Kỹ thuật in thạch bản là một kỹ thuật in bao gồm tái tạo thông qua bản in của những gì được khắc hoặc vẽ trước đó trên đá vôi. Vì vậy, nói một cách dễ hiểu hơn về mặt đồ họa, in thạch bản là quá trình dập kết quả từ một ma trận đá.
Trong khi đó, đặc điểm chính của nó là dựa trên nguyên lý đào thải tự nhiên xảy ra giữa nước và chất béo khi chúng tiếp xúc, tức là công cụ nổi bật nhất thực hiện kỹ thuật này là sự kết dính đa dạng mà chúng đạt được các chất liên quan đến nước và những thứ không. Khi nước loại bỏ mực nhờn, nó sẽ không được in.
Trong khi đó, một khi bản vẽ đã được thực hiện và khi bản vẽ được đổ mực, điều đáng nói là mực sẽ chỉ bắt lửa ở những phần tương ứng với bản vẽ và đã được làm bằng dầu mỡ và phần còn lại mực sẽ chảy ra. Đó là một điều kiện sine quanom mà đá phải xốp để hấp thụ nước và hạt mịn để giữ lại chất béo. Đá vôi hóa ra lại là loại đá thích hợp nhất để thực hiện quy trình này.
Sự khác biệt chính có thể là do kỹ thuật in này so với các kỹ thuật khác, chẳng hạn như khắc gỗ và intaglio là in thạch bản không sử dụng một công cụ hoặc một yếu tố ăn mòn nào để ảnh hưởng đến bề mặt, và do đó, nó không nên được coi là một hệ thống khắc chính thức nhưng sẽ thích hợp hơn nếu nói về một hệ thống dập.
Thủ tục này là được tạo ra vào cuối thế kỷ 18, chính xác hơn là vào năm 1796, bởi nhà phát minh và nhạc sĩ người Đức Johann Aloys Senefelder. Chuyện kể rằng vào một buổi sáng, Senefelder chỉ cầm trên tay một viên đá mài nhẵn và một cây bút chì bôi mỡ và sau đó ở đó ông ta dám viết ra danh sách những bộ quần áo phải mang đi giặt. Đó là bước khởi đầu của kỹ thuật in thạch bản. Đối với nhu cầu gần như chính yếu này, thêm vào đó là nhu cầu chuyên nghiệp để công khai các vở kịch của anh ấy và điểm số mà anh ấy đã sử dụng với chi phí thấp, và ví dụ, phương pháp được sử dụng cho danh sách là một sự thay thế tuyệt vời theo nghĩa đó.
Cũng để mỗi sự tái tạo đạt được thông qua kỹ thuật đã được giải thích trước đó chúng được gọi là kỹ thuật in thạch bản.